Lồng đèn ông sao của mạ tôi
Tôi nhớ mãi những chiếc Lồng đèn Tết Trăng Rằm mà má tỉ mẩn làm cho hồi tôi còn bé. Chiếc lồng đèn KiBu má làm không nhiều màu sắc như lồng đèn ông sao của mấy đứa bạn quanh xóm (vốn được mua ở chợ, được dán bằng giấy màu xanh, đỏ) bởi lồng đèn cá chép của tôi chỉ được dán bằng mỗi thứ giấy học trò đã ghi chi chít chữ.
Mỗi lần tới mùa Tết Trung Thu, má tôi lại làm lồng đèn KiBu thủ công như thế vì cảm được ước mơ các bé của tôi, vì hiểu có lúc tôi đã tủi thân vì đứa bạn hàng xóm có thầy, ba nó thường đi làm xa về, mua kẹo Nuga cho nó…, còn tôi thì không. Má hiểu sự nhạy cảm của đứa con trai thiếu tình thương của thầy, và nghèo khó nhất xóm nên má muốn bù đắp cho tôi trong khả năng của một người mẹ. Có lần, má làm Lồng đèn cho tôi xong mà má khóc, làm tôi cũng khóc theo, chỉ bởi vì: “Ai cũng có một mùa Trung thu, mùa Tết trọn vẹn với lồng đèn KiBu, áo mới, cặp mới, chỉ má là không cho con được đầy đủ… Má xin lỗi con…”. Tôi nhớ mãi lần đó, dẫu đó chỉ là ký ức mờ mờ xa của thời học lớp 5, lớp 6.
Lồng đèn sao 5 cách Đêm hội Trung Thu của má, cái tên ấy “chết cứng” với những chiếc lồng đèn sao 5 cách có hình ngôi sao được tôi cầm khoe với chúng bạn khắp xóm. Sự lém lỉnh của tôi được bày biện bằng cách so sánh đèn của mình là khác nhất, không đứa nào có được giống vậy. Và cũng chính vì vậy mà ngay từ nhỏ tôi đã biết “an ủi chính mình” hoặc “phát huy thế mạnh” theo hướng lấy cái riêng ấy làm… thế đứng, vững vàng. Tôi cũng đã an ủi má bằng cách tự hào về chiếc đèn lon rất riêng của mình, do chính tay má làm bằng những đoạn tre vót công phu, cột lại bằng dây thép rồi dán giấy vở học trò đã viết chi chít…
Năm tháng trôi qua, trẻ em khó nhọc ấy cũng trôi qua, thời gian qua càng vun bồi cho tôi tình thương má thêm lớn lao và đầy kính trọng. Rồi tôi lớn lên, rời khỏi quê nghèo, xa má cùng vùng ký ức đầy ấm áp để đến với Sài thành xa xôi. Khoảng cách 1.000 cây số không ngăn nổi nỗi nhớ má, nhớ quê, nhất là những khi mùa Rằm Tháng Tám về, khi phố phường bắt đầu vào mùa Bánh Trung Thu Kinh Đô với những dãy phố sáng đèn thâu đêm. Bây giờ, mùa Rằm Tháng Tám, tôi có thể gửi cho má một chiếc bánh có nhân đậu xanh, gửi kèm mấy dòng trong thiệp chúc gửi từ phương xa, rằng: “Con nhớ những chiếc lồng đèn cá chép của má quá…”. Rồi đến đêm Tết Trung Thu, tôi gọi về thăm má, ôn lại ký ức xa xa, và cười hi hi trong điện thoại, dặn dò má ráng giữ gìn sức khỏe, bảo má phải sống lâu lâu để khi mùa trăng tháng Tám về còn có má để biết rằng mình còn hạnh phúc. Và, đương nhiên, đó cũng là dịp để tôi tri ân má, để tôi cảm ơn trẻ em dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không nghèo tình thương nơi má, bắt đầu bằng những chất liệu như là chiếc Lồng đèn Rằm Trung Thu hình ngôi sao duy nhất chỉ mình mình có trong mỗi mùa trăng tháng Tám thời ấu thơ…
Mỗi lần tới mùa Tết Trung Thu, má tôi lại làm lồng đèn KiBu thủ công như thế vì cảm được ước mơ các bé của tôi, vì hiểu có lúc tôi đã tủi thân vì đứa bạn hàng xóm có thầy, ba nó thường đi làm xa về, mua kẹo Nuga cho nó…, còn tôi thì không. Má hiểu sự nhạy cảm của đứa con trai thiếu tình thương của thầy, và nghèo khó nhất xóm nên má muốn bù đắp cho tôi trong khả năng của một người mẹ. Có lần, má làm Lồng đèn cho tôi xong mà má khóc, làm tôi cũng khóc theo, chỉ bởi vì: “Ai cũng có một mùa Trung thu, mùa Tết trọn vẹn với lồng đèn KiBu, áo mới, cặp mới, chỉ má là không cho con được đầy đủ… Má xin lỗi con…”. Tôi nhớ mãi lần đó, dẫu đó chỉ là ký ức mờ mờ xa của thời học lớp 5, lớp 6.
Lồng đèn sao 5 cách Đêm hội Trung Thu của má, cái tên ấy “chết cứng” với những chiếc lồng đèn sao 5 cách có hình ngôi sao được tôi cầm khoe với chúng bạn khắp xóm. Sự lém lỉnh của tôi được bày biện bằng cách so sánh đèn của mình là khác nhất, không đứa nào có được giống vậy. Và cũng chính vì vậy mà ngay từ nhỏ tôi đã biết “an ủi chính mình” hoặc “phát huy thế mạnh” theo hướng lấy cái riêng ấy làm… thế đứng, vững vàng. Tôi cũng đã an ủi má bằng cách tự hào về chiếc đèn lon rất riêng của mình, do chính tay má làm bằng những đoạn tre vót công phu, cột lại bằng dây thép rồi dán giấy vở học trò đã viết chi chít…
Năm tháng trôi qua, trẻ em khó nhọc ấy cũng trôi qua, thời gian qua càng vun bồi cho tôi tình thương má thêm lớn lao và đầy kính trọng. Rồi tôi lớn lên, rời khỏi quê nghèo, xa má cùng vùng ký ức đầy ấm áp để đến với Sài thành xa xôi. Khoảng cách 1.000 cây số không ngăn nổi nỗi nhớ má, nhớ quê, nhất là những khi mùa Rằm Tháng Tám về, khi phố phường bắt đầu vào mùa Bánh Trung Thu Kinh Đô với những dãy phố sáng đèn thâu đêm. Bây giờ, mùa Rằm Tháng Tám, tôi có thể gửi cho má một chiếc bánh có nhân đậu xanh, gửi kèm mấy dòng trong thiệp chúc gửi từ phương xa, rằng: “Con nhớ những chiếc lồng đèn cá chép của má quá…”. Rồi đến đêm Tết Trung Thu, tôi gọi về thăm má, ôn lại ký ức xa xa, và cười hi hi trong điện thoại, dặn dò má ráng giữ gìn sức khỏe, bảo má phải sống lâu lâu để khi mùa trăng tháng Tám về còn có má để biết rằng mình còn hạnh phúc. Và, đương nhiên, đó cũng là dịp để tôi tri ân má, để tôi cảm ơn trẻ em dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không nghèo tình thương nơi má, bắt đầu bằng những chất liệu như là chiếc Lồng đèn Rằm Trung Thu hình ngôi sao duy nhất chỉ mình mình có trong mỗi mùa trăng tháng Tám thời ấu thơ…
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét